Thân thế và cuộc sống ban đầu Kim Ai Tông

Kim Ai Tông chào đời ngày 25 tháng 9 năm 1198 (tức 23 tháng 8 ÂL năm Thừa An thứ ba) đời thúc phụ Kim Chương Tông Hoàn Nhan Cảnh ở Dực để[8], vì khi đó cha ông là Kim Tuyên Tông còn là Dực vương[9]. Mẹ của ông là Vương thị[10], người Hán về sau được truy phong Minh Huệ hoàng hậu. Vương thị là con gái người anh của Nhân Thánh hoàng hậu, vợ cả của Tuyên Tông. Vì Nhân Thánh không có con nên nuôi những người con do những người vợ khác của Tuyên Tông sinh ra làm con mình, trong đó có Thủ Lễ.

Giữa những năm Thái Hòa đời Kim Chương Tông (1201 - 1208), Hoàn Nhan Thủ Lễ được phong chức Kim tử Quang lộc đại phu[8]. Nói thêm về tình hình nước Kim lúc này: Vào năm 1208, Kim Chương Tông qua đời, không con nối dõi nên hoàng thúc Vệ Thiệu vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế được lập nối ngôi[11][12]. Bấy giờ trong cung có hai phi tần là Giả thị và Phạm thị đã có mang, Chương Tông có di chiếu nếu sinh con trai thì lập làm thái tử. Vĩnh Tế lo sợ cho ngôi báu của mình, nên cùng Bộc Tán Đoan tính kế. Bộc Tán Đoan giả truyền chiếu chỉ của tiên đế, nói Giả thị sinh vào tháng 11 mà nay đã quá hạn; Phạm thị phải sinh vào tháng giêng mà nay ngự y chẩn đoán không thấy thai, hai người bị ép làm ni cô. Nguyên phi Lý thị vốn có thâm tình với Giả thị biết được sự việc có điều mờ ám nên cũng bị Vĩnh Tế bức chết. Trong ngoài đều hoài nghi, lòng dân không yên. Sau đó lại có chuyện Nguyên Thái Tổ Thiết Mộc Chân dẫn quân xâm lược nước Kim, nước Kim nhanh chóng thất thế trong cuộc giao tranh. Giữa lúc đó trong cung lại có chính biến. Năm 1213 tướng Hồ Sa Hổ giết chết vua Vĩnh Tế, lập Hoàn Nhan Tuân lên ngôi, tức Kim Tuyên Tông[13]. Năm 1214, trước sự tấn công của người Mông, Tuyên Tông quyết định chạy về phía nam sông Hoàng Hà, định đô ở Biện Kinh. Năm 1215, Trung Đô của nước Kim (tức Yên Kinh) bị quân Mông chiếm được, nước Kim ngày một suy yếu, không thể chống đỡ nổi quân Mông.

Tuyên Tông sau khi lên ngôi đã phong chức tước cho các con của mình, trong đó Hoàn Nhan Thủ Lễ nhận chức Bí thư giám, tiến tước Toại vương, sau đó ông được đổi làm Xu mật sứ[8]. Đầu năm Trinh Hựu thứ ba (1215, anh ông là Trang Hiến thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung qua đời, Tuyên Tông lập con Thủ Trung là hoàng tôn Hoàn Nhan Khanh làm Hoàng thái tôn, nhưng cuối năm đó thì Khanh cũng mất, và Thủ Trung không còn người con nào khác nên Thủ Lễ trở thành người có địa vị nối ngôi. Ngày Kỉ Mão tháng 1 ÂL năm thứ 4 (1216), Tuyên Tông chính thức phong ông làm hoàng thái tử, cho nắm quyền khống chế Xu mật viện[8]. Tháng 4 ÂL, Tuyên Tông theo ý kiến của đại thần Trương Hành, quyết định đổi tên ông từ Thủ Lễ thành Thủ Tự[8].

Lúc này triều Kim phát động chiến tranh với triều Tống ở phía nam. Vào cuối năm 1218, Tuyên Tông dùng thái tử làm Nguyên soái đích thân dẫn quân đánh Tống, cùng Bộc Tán An Trinh làm Phó soái. Đầu năm 1219, quân Kim đánh vào các châu Tây, Hòa, Thành, Phượng và trại Hoàng Ngưu, lấy Vũ Hưu quan, phá phủ Hưng Nguyên, vây Đại An, tướng Tống Ngô Chính chết trận. Sau đó người Kim chiếm được Đại An tiến thẳng vào chiếm được Dương châu, Đổng Cư Nghị bỏ trốn. Đô thống chế Trương Uy sai tướng Thạch Tuyên đem quân ra chống, giành thắng lợi, giết hơn 3000 quân Kim, bắt sống tướng Kim Ba Đồ Lỗ An. Thái tử lại sai Hoàn Nhan Ngoa vây đánh Tảo Dương. Mạnh Tông Chính là tướng giữ thành này đã cho báo về triều đình, Kinh Hồ chế trí sứ Triệu Phương cử Hỗ Tái Hưng đem hơn 3 vạn binh tiến đánh hai châu Đường, Đặng cả Kim để kéo quân Kim về cứu[14], nhưng Bộc Tán An Trinh không cứu Đường, Đặng mà tiếp tục vây đánh An Phong quân cùng các châu Trừ, Hào, Quang. Các tướng Tống Vũ Sư Đạo, Trần Hiếu Trung đến cứu nhưng không được. Sau đó An Trinh phân binh từ Quang châu đánh Ma Thành, từ Hào châu xâm Thạch Thích, từ Hu Dị lất Toàn Tiêu, Lai An, Thiên Trường, Lục Hợp. Dân chúng ở Hoài Nam lũ lượt kéo nhau vượt sông Trường Giang bỏ trốn, cả thành Kiến Khang chấn động. Lúc đó, Hoài Đông đề hình Giả Thiệp nắm quyền ở Sở châu, sai Trần Hiếu Trung cứu Từ châu, Hạ Toàn, Thời Thanh cứu Hào châu; Lý Tiên, Cát Bình, Dương Đức Quảng đến Từ Hào; Lý Toàn, Lý Phúc được lệnh chặn đường rút lui của người Kim. Lý Toàn tiến quân Qua Khẩu giao chiến với tướng Kim Ngột Thạch Liệt Nha Ngô Đáp ở Hóa Hồ bi. Quân Kim bị tổn thất 3000 người, mất kim bài, Hoàn Nhan Thủ Tự đành phải rút quân về nước.